Cambridge Ielts 2 – Test 1 – Passage 1
Airports on water
———————————-
DỊCH TIẾNG VIỆT
Do chưa có thời gian làm nên bài dịch tạm được lấy nguồn từ trang http://www.tonyenglish.vn/ để phục vụ người tự học.
Ielts Ngân Hoa đang tiến hành hoàn thiện các bài dịch bao gồm bảng từ vựng và giải thích đáp án dần. Các bạn xem các bài làm đầy đủ do Ielts-Ngân Hoa làm Tại Đây.
Dù có cố gắng đến đâu, bài dịch vẫn có thể có sai sót. Rất hoan nghênh sự góp ý của các bạn qua mục comment cuối bài.
Airports on water
Sân bay trên mặt nước
River deltas are difficult places for map makers. The river builds them up, the sea wears them down; their outlines are always changing. The changes in China’s Pearl River delta, however, are more dramatic than these natural fluctuations. An island six kilometers long and with a total area of 1248 hectares is being created there. And the civil engineers are as interested in performance as in speed and size. This is a bit of the delta that they want to endure. | Các đồng bằng trên sông là nơi rất khó để vẽ bản đồ. Các con sông tạo nên các đồng bằng này rồi biển làm cho chúng xói mòn nên hình thù chúng luôn luôn thay đổi. Tuy nhiên những thay đổi ở đồng bằng sông Châu Giang Trung Quốc có nhiều kịch tính hơn so với những biến động tự nhiên. Một hòn đảo dài sáu cây số có tổng diện tích 1,248 ha đang được tạo ra ở đó. Và các kỹ sư dân dụng rất quan tâm đến hiệu suất cũng như tốc độ và kích thước sinh ra hòn đảo này. Có một vùng đồng bằng nhỏ họ muốn duy trì ở đây. |
The new island of Chek Lap Kok, the site of Hong Kong’s new airport, is 83% complete. The giant dumper trucks rumbling across it will have finished their job by the middle of this year and the airport itself will be built at a similarly breakneck pace. | Hòn đảo mới của Xích Liệp Giác, nơi của sân bay mới ở Hồng Kông, đã hoàn tất được 83%. Các xe tải dumper khổng lồ chạy ầm ầm trên đảo sẽ hoàn thành công việc này vào giữa năm nay và sân bay sẽ được xây dựng tại đây với một tốc độ chóng mặt tương tự. |
As Chek Lap Kok rises, however, another new Asian island is sinking back into the sea. This is a 520-hectare island built in Osaka Bay, Japan, that serves as the platform for the new Kansai airport. Chek Lap Kok was built in a different way, and thus hopes to avoid the same sinking fate. | Tuy nhiên khi đảo Xích Liệp Giác được nâng lên thì một hòn đảo ở châu Á mới đang bị chìm xuống biển. Đó là một hòn đảo 520 ha được xây dựng tại Vịnh Osaka, Nhật Bản, làm nền tảng cho sân bay Kansai mới. Xích Liệp Giác được xây dựng theo một cách khác, và do đó người ta hy vọng nó sẽ tránh được số phận bị chìm giống như đảo ở Osaka. |
The usual way to reclaim land is to pile sand rock on to the seabed. When the seabed oozes with mud, this is rather like placing a textbook on a wet sponge: the weight squeezes the water out, causing both water and sponge to settle lower. The settlement is rarely even: different parts sink at different rates. So buildings, pipes, roads and so on tend to buckle and crack. You can engineer around these problems, or you can engineer them out. Kansai took the first approach; Chek Lap Kok is taking the second. | Cách thông thường để khai hoang đất là chồng đá cát trên đáy biển. Khi đáy biển chảy bùn, khá giống như cách chúng ta đặt một cuốn sách giáo khoa trên một miếng bọt biển ướt thì trọng lượng của nó sẽ ép nước ra ngoài, khiến cả nước và bọt biển hạ xuống thấp hơn. Cách tạo đất lún này rất hiếm gặp khi các bộ phận khác nhau bị chìm ở các mức khác nhau. Vì vậy, các tòa nhà, đường ống, đường giao thông có xu hướng bị oằn xuống và đỗ vỡ. Bạn có thể thiết kế để giải quyết những vấn đề này, hoặc bạn có thể thiết kế để loại trừ chúng ra. Kansai đã tiếp cận phương án đầu tiên còn Xích Liệp Giác thì dùng phương án thứ hai. |
The differences are both political and geological. Kansai was supposed to be built just one kilometer offshore, where the seabed is quite solid. Fishermen protested, and the site was shifted a further five kilometers. That put it in deeper water (around 20 meters) and above a seabed that consisted of 20 meters of soft alluvial silt and mud deposits. Worse, below it was a not-very- firm glacial deposit hundreds of meters thick. | Cả hai khác biệt về cả chính trị lẫn địa chất. Kansai được cho là được xây dựng chỉ một cây số ngoài khơi, nơi đáy biển khá vững chắc. Ngư dân phản đối, và các sân bay đã được chuyển ra thêm năm cây số nữa. Điều đó đặt nó ở vùng nước sâu (khoảng 20 mét) và trên một đáy biển mà ở đó bao gồm 20 mét bùn phù sa và bùn mỏ mềm. Tệ hơn nữa, dưới nó là một lớp băng dày hàng trăm mét không cứng lắm. |
The Kansai builders recognized that settlement was inevitable. Sand was driven into the seabed to strengthen it before the landfill was piled on top, in an attempt to slow the process; but this has not been as effective as had been hoped. To cope with settlement, Kansai’s giant terminal is supported on 900 pillars. Each of them can be individually jacked up, allowing wedges to be added underneath. That is meant to keep the building level. But it could be a tricky task. | Những người xây dựng Kansai công nhận rằng việc bị lún là không thể tránh khỏi. Cát bị đưa xuống đáy biển để tăng cường trước khi đất được đổ ở phía trên để làm chậm quá trình này; nhưng điều này đã không được hiệu quả như đã mong đợi. Để đối phó với vấn đề bị lún này, thiết bị đầu cuối khổng lồ của Kansai được hỗ trợ bằng 900 trụ cột. Mỗi trụ có thể được kích lên từng cây một, cho phép đóng nêm thêm vào bên dưới. Việc này để giữ mức của khối công trình luôn ổn định. Nhưng nó có thể là một nhiệm vụ khó khăn. |
Conditions are different at Chek Lap Kok. There was some land there to begin with, the original little island of Chek Lap Kok and a smaller outcrop called Lam Chau. Between them, these two outcrops of hard, weathered granite make up a quarter of the new island’s surface area. Unfortunately, between the islands there was a layer of soft mud, 27 meters thick in places. | Điều kiện tại Xích Liệp Giác rất khác nhau. Có một số đất ở đó để bắt đầu là hòn đảo nhỏ ban đầu của Xích Liệp Giác và một phần đất lộ thiên nhỏ hơn gọi là Lâm Châu. Giữa hai mỏm đất cứng lộ thiên này, lớp đá granit phong hóa tạo nên một phần tư diện tích bề mặt của hòn đảo mới này. Thật không may, giữa các đảo cũng có một lớp bùn mềm, dày 27 mét thay thế. |
According to Frans Uiterwijk, a Dutchman who is the project’s reclamation director, it would have been possible to leave this mud below the reclaimed land, and to deal with the resulting settlement by the Kansai method. But the consortium that won the contract for the island opted for a more aggressive approach. It assembled the worlds largest fleet of dredgers, which sucked up l50m cubic meters of clay and mud and dumped it in deeper waters. At the same time, sand was dredged from the waters and piled on top of the layer of stiff clay that the massive dredging had laid bare. | Theo Frans Uiterwijk, một người Hà Lan là giám đốc khai hoang của dự án, việc để lớp bùn này dưới lớp dưới đất khai hoang là khả thi và để giải quyết với vấn đề lún nếu xây theo phương pháp Kansai. Nhưng tập đoàn này đã giành được hợp đồng cho đảo với cách lựa chọn cách tiếp cận tích cực hơn. Họ lắp ráp một đội tàu hút bùn lớn nhất thế giới có thể hút tới 150m mét khối đất sét và bùn và đổ nó ở các vùng nước sâu hơn. Đồng thời, cát đã được nạo vét từ các vùng biển và chất đống trên trên lớp đất sét cứng để việc nạo vét có thể thực hiện hàng loạt. |
Nor was the sand the only thing used. The original granite island which had hills up to 120 meters high was drilled and blasted into boulders no bigger than two meters in diameter. This provided 70m cubic meters of granite to add to the island’s foundations. Because the heap of boulders does not fill the space perfectly, this represents the equivalent of 105m cubic meters of landfill. Most of the rock will become the foundations for the airport’s runways and its taxiways. The sand dredged from the waters will also be used to provide a two-meter capping layer over the granite platform. This makes it easier for utilities to dig trenches –granite is unyielding stuff. Most of the terminal buildings will be placed above the site of the existing island. Only a limited amount of pile-driving is needed to support building foundations above softer areas. | Cũng không phải là cát là thứ duy nhất được sử dụng. Đảo chứa khoáng sản granite đầu tiên có đồi cao tới 120 mét đã được khoan và cho nổ tung thành những tảng đá không lớn hơn hai mét đường kính. Việc này tạo ra 70 triệu mét khối đá granite để làm nền cho hòn đảo. Bởi vì những đống đá không thể lấp đầy không gian một cách hoàn hảo tạo ra các hố tương đương 105m mét. Hầu hết đá này sẽ trở thành nền cho đường băng và đường lăn sân bay. Cát được nạo từ các vùng biển cũng sẽ được sử dụng để cung cấp cho lớp đất dày hai mét trên nền đá granit. Việc này làm cho việc đào hào dễ dàng hơn khi granite là thứ không không dễ đào chút nào. Hầu hết các khu nhà ga sẽ được đặt trên nơi của các hòn đảo hiện có. Chỉ có một số lượng hạn chế các máy đóng cọc được dùng để hỗ trợ xây nền trên các khu vực mềm hơn. |
The completed island will be six to seven meters above sea level. In all, 350m cubic meters of material will have been moved. And much of it, like the overloads, has to be moved several times before reaching its final resting place. For example, there has to be a motorway capable of carrying 150-tonne dump-trucks; and there has to be a raised area for the 15,000 construction workers. These are temporary; they will be removed when the airport is finished. | Hòn đảo hoàn thành sẽ cao sáu đến bảy mét trên mực nước biển. Tổng cộng 350m mét khối vật liệu sẽ được chuyển đi. Và những thứ có tải trọng lớn sẽ phải di chuyển nhiều lần trước khi được đặt đến nơi cuối cùng. Ví dụ, sẽ có một đường cao tốc có khả năng chịu tải những chiếc xe tải 150 tấn; và sẽ có một khu vực lớn cho 15,000 công nhân xây dựng làm việc. Đây chỉ là tạm thời và chúng sẽ được gỡ bỏ khi sân bay được hoàn thành. |
The airport, though, is here to stay. To protect it, the new coastline is being bolstered with a formidable twelve kilometers of sea defenses. The brunt of a typhoon will be deflected by the neighboring island of Lantau; the sea walls should guard against the rest. Gentler but more persistent bad weather – the downpours of the summer monsoon – is also being taken into account. A mat-like material called geo textile is being laid across the island to separate the rock and sand layers. That will stop sand particles from being washed into the rock voids, and so causing further settlement This island is being built never to be sunk. | Mặc dù sân bay sẽ nằm ở đây. Để bảo vệ nó, đường bờ biển mới đang được củng cố với một hàng trào dọc biển dài tới mười hai cây số. Sức mạnh chính của cơn bão được làm chệch hướng bởi các hòn đảo lân cận của Lantau; các bức tường biển sẽ bảo vệ để chống lại các phần còn lại của cơn bảo. Những trận mưa lớn của gió mùa hè – nhẹ nhàng nhưng dai dẳng hơn thời tiết xấu – cũng được xem xét. Một vật liệu tương tự như thảm gọi là vải địa kỹ thuật đang được đặt may trên khắp hòn đảo để tách các lớp đá và cát. Điều đó sẽ ngăn chặn các hạt cát bị trôi vào các khoảng trống đá, và sẽ làm hòn đảo bị lún nhiều hơn . Hòn đảo này đang được xây dựng để không bao giờ bị chìm. |
Trên đây là bài dịch tiếng Việt của Cambridge 2, Test 1, Reading Passage 1 – Airports on water được lấy nguồn từ trang http://www.tonyenglish.vn/ để phục vụ người tự học.
Ielts Ngân Hoa đang tiến hành hoàn thiện các bài dịch bao gồm bảng từ vựng và giải thích đáp án dần. Các bạn xem các bài làm đầy đủ do Ielts-Ngân Hoa làm Tại Đây.
Dù có cố gắng đến đâu, bài dịch vẫn có thể có sai sót. Rất hoan nghênh sự góp ý của các bạn qua mục comment cuối bài.
Answer with explanation, highlighted vocabularies of Cambridge 2, Test 1, Reading Passage 1 – Airports on water
Cambridge IELTS 2: Test 1 – Reading Passage 2 – Answer explanation with keyword tables & Translation
Cambridge IELTS 1: Test 4 – Reading Passage 3 – Answer explanation with keyword tables & Translation
P/s: Ngoài những bài giảng online cho những người tự học tiếng Anh, Ielts, nếu muốn học kỹ và chất lượng hơn với các lớp học ít người, học phí thấp các bạn có thể tham gia các lớp luyện thi Ielts offline trên đường Nguyễn Trãi – Thanh Xuân – Hà Nội do chính Ms. Ngân Hoa giảng dạy nhé.
Nếu có thắc mắc hoặc đóng góp thêm cho bài dịch và giải thích, bạn hãy comment bên dưới hoặc đặt câu hỏi trên Group FB dưới đây mà Ms. Ngân Hoa thường viết bài nhé.
CÁC KHÓA HỌC OFFLINE CỦA Ms. NGÂN HOA
Hướng dẫn các kỹ năng Ielts: