Cambridge Ielts 9 – Test 3 – Passage 1
Attitudes to language
———————————-
DỊCH TIẾNG VIỆT
Do chưa có thời gian làm nên bài dịch tạm được lấy nguồn từ trang http://www.tonyenglish.vn/ để phục vụ người tự học.
Ielts Ngân Hoa đang tiến hành hoàn thiện các bài dịch bao gồm bảng từ vựng và giải thích đáp án dần. Các bạn xem các bài làm đầy đủ do Ielts-Ngân Hoa làm Tại Đây.
Dù có cố gắng đến đâu, bài dịch vẫn có thể có sai sót. Rất hoan nghênh sự góp ý của các bạn qua mục comment cuối bài.
Attitudes to language
Các thái độ với ngôn ngữ
It is not easy to be systematic and objective about language study. Popular linguistic debate regularly deteriorates into invective and polemic. Language belongs to everyone, so most people feel they have a right to hold an opinion about it And when opinions differ, emotions can run high. Arguments can start as easily over minor points of usage as over major policies of linguistic education. | Không dễ dàng gì để có tính hệ thống và khách quan khi nghiên cứu về ngôn ngữ. Các cuộc tranh luận về ngôn ngữ thường xuyên trở nên xấu đi và biến thành các cuộc tranh cãi.Ngôn ngữ thuộc về tất cả mọi người, vì vậy hầu hết mọi người cảm thấy họ có quyền có ý kiến về nó. Và khi quan điểm khác nhau, cảm xúc có thể trở nên cao trào. Các cuộc tranh luận có thể bắt đầu một cách dễ dàng từ các điểm nhỏ của cách sử dụng đến là các chính sách của giáo dục liên quan đến ngôn ngữ. |
Language, moreover, is a very public behavior so it is easy for different usages to be noted and criticized No part of society or social behavior is exempt: linguistic factors influence how we judge personality, intelligence, social status, educational standards, job aptitude, and many other areas of identity and social survival. As a result, it is easy to hurt, and to be hurt, when language use is unfeelingly attacked. | Hơn nữa, ngôn ngữ là một hành vi rất công khai, vì vậy các cách sử dụng khác nhau rất dễ dàng bị ghi nhận và chỉ trích. Không có nhóm nào của xã hội hoặc hành vi xã hội nào được miễn trừ: các yếu tố ngôn ngữ ảnh hưởng đến cách chúng ta đánh giá tính cách, trí tuệ, địa vị xã hội, tiêu chuẩn giáo dục, năng lực làm việc và nhiều lĩnh vực khác về nhận dạng và sự tồn tại của xã hội. Do đó, thật dễ gây tổn thương ai đó và bị tổn thương, khi việc sử dụng ngôn ngữ bị công kích mà thiếu đi sự cảm thông. |
ln its most general sense. prescriptivism is the view that one variety of language has an inherently higher value than others, and that this ought to be imposed on the whole of the speech community. The view is propounded especially in relation to grammar and vocabulary, and frequently with reference to pronunciation. The variety which ls favoured, in this account, ls usually a version of the ‘standard’ written language, especially as encountered in literature, or in the formal spoken language which most closely reflects this style. Adherents to this variety are said to speak or write ‘correctly’; deviations from lt are said to be ‘incorrect`. | Theo nghĩa chung nhất, thuyết quy nạp là quan điểm cho rằng một loại ngôn ngữ vốn đã có giá trị cao hơn những ngôn ngữ khác, và điều này nên được áp đặt trên toàn bộ cộng đồng sử dụng ngôn ngữ. Quan điểm được đề xuất đặc biệt liên quan đến ngữ pháp và từ vựng, và thường xuyên có liên quan đến cách phát âm. Đây thường là phiên bản của ngôn ngữ viết ‘chuẩn mực’, đặc biệt thường bắt gặp trong văn học, hoặc trong ngôn ngữ nói trang trọng phản ánh rõ nhất phong cách này. Người theo chủ nghĩa này thường bị cho là nói hoặc viết ‘một cách chính xác’; những gì sai lệch khỏi những chuẩn mực đó bị cho là ‘sai! |
All the main languages have been studied prescriptlvely, especially in the 18th-century approach to the writing of grammars and dictionaries. The aims of these early grammarians were threefold: [a) they wanted to codify the principles of their languages, to show that there was a system beneath the apparent chaos of usage. (b] they wanted a means of settling disputes over usage, and (c] they wanted to point out what they felt to be common errors, in order to ‘improve’ the language. The authoritarian nature of the approach is best characterized by its reliance on ‘rules’ of grammar Some usages are prescribed; to be learnt and followed accurately; others are prescribed to be avoided. ln this early period, there were no half-measures: usage was either right or wrong. and it was the task of the grammarian not simply to record alliterative but to pronounce judgement upon them. | Tất cả các ngôn ngữ chính đã được nghiên cứu theo phong tục tập quán, đặc biệt trong cách tiếp cận ở thế kỷ 18 đối với việc viết văn phạm và từ điển. Mục tiêu của những nhà ngữ pháp ban đầu bao gồm (a) họ muốn mã hóa các nguyên tắc ngôn ngữ của họ, cho thấy có một hệ thống bên dưới sự hỗn loạn hiển nhiên của việc sử dụng, (b) họ muốn một phương tiện giải quyết các tranh chấp về sử dụng, và (C) họ muốn chỉ ra những gì họ cảm thấy là lỗi phổ biến, để “cải thiện” ngôn ngữ. Tính chất độc đoán của cách tiếp cận này đthể hiện rõ nhất qua tính phụ thuộc vào “các quy tắc” của ngữ pháp. Một số cách sử dụng được ‘quy định,’ để được học và thực hiện một cách chính xác; những cách khác bị ‘cấm đoán’, để tránh không dung tới. Trong giai đoạn đầu, không có biện pháp thỏa hiệp nào: cách sử dụng là đúng hay sai, và nó là nhiệm vụ của nhà ngữ pháp không chỉ đơn giản là để ghi lại các lựa chọn thay thế, mà còn để thông báo sự phán đoán dựa trên đó. |
These attitudes are still with us, and they motivate a widespread concern that linguistic standards should be maintained. Nevertheless, there is an alternative point of view that is concerned less with standards than with the facts of linguistic usage. This approach ls summarized in the statement that it is the task of the grammarian to describe not prescribe to record the facts of linguistic diversity, and not to attempt the impossible tasks evaluating language variation or halting language change. In the second half of the 18th century, we already find advocates of this view, such as Joseph Priestley, whose Rudiments of English Grammar (1761) insists that ‘the custom of speaking is the original and only just standard of any language. `Linguistic issues, it is argued, cannot be solved by logic and legislation. And this view has become the tenet of the modem linguistic approach to grammatical analysis. | Những thái độ này vẫn còn ở Hoa Kỳ, và họ khuyến khích mối quan tâm rộng rãi rằng các tiêu chuẩn ngôn ngữ cần phải được duy trì. Tuy nhiên, có một quan điểm thay thế khác ít quan tâm đến các tiêu chuẩn hơn so với thực tế sử dụng ngôn ngữ. Cách tiếp cận này được tóm tắt trong tuyên bố rằng nó là nhiệm vụ của nhà ngữ pháp là mô tả, chứ không phải ghi rõ các sự kiện về sự đa dạng ngôn ngữ, và không phải là cố gắng thực hiện các nhiệm vụ bất khả thi trong việc đánh giá sự biến đổi ngôn ngữ hoặc ngăn chặn sự thay đổi ngôn ngữ. Trong nửa cuối của thế kỷ 18, chúng ta đã tìm thấy những người ủng hộ quan điểm này, như Joseph Priestiey, Nguyên lý cơ bản Ngữ pháp tiếng Anh (1761) của ông nhấn mạnh rằng “thói quen nói là nguyên bản và là chuẩn mực của bất kỳ ngôn ngữ nào! Các vấn đề ngôn ngữ học, được lập luận rằng, nó không thể giải quyết chỉ theo logic và luật pháp. Và quan điểm này đã trở thành nguyên lý của cách tiếp cận ngôn ngữ hiện đại đối với phân tích ngữ pháp. |
In our own time, the opposition between ‘descriptivists’ and ‘prescriptivists’ has often become extreme. with both sides painting unreal pictures of the other. Descriptive grammarians have been presented as people who do not care about standards, because of the way they see all forms of usage as equally valid. Prescriptive grammarians have been presented as blind adherents to a historical tradition. The opposition has even been presented in quasi-political terms – of radical liberalism vs elitist conservatism. | Trong thời đại của chúng ta, sự đối lập giữa “những người theo chủ nghĩa mô tả” và “những người theo chủ nghĩa đề cao sự nguyên tắc” thường trở nên cực đoan, cả hai bên phản ánh hình ảnh không chân thực của đối phương. Các nhà ngữ pháp mô tả đã được trình bày như những người không quan tâm đến các tiêu chuẩn, bởi vì cách mà họ nhìn nhận tất cả các hình thức sử dụng đều có giá trị như nhau. Những nhà ngữ pháp có quy tắc đã được trình bày như những người tuân theo truyền thống lịch sử một cách mù quáng. Sự đối lập thậm chí còn được trình bày trong các thuật ngữ gần như mang tính chính trị – về chủ nghĩa tự do căn bản và chủ nghĩa bảo thủ tinh nhuệ. |
Trên đây là bài dịch tiếng Việt của Cambridge 9, Test 3, Reading Passage 1 – Attitudes to language được lấy nguồn từ trang http://www.tonyenglish.vn/ để phục vụ người tự học.
Ielts Ngân Hoa đang tiến hành hoàn thiện các bài dịch bao gồm bảng từ vựng và giải thích đáp án dần. Các bạn xem các bài làm đầy đủ do Ielts-Ngân Hoa làm Tại Đây.
Dù có cố gắng đến đâu, bài dịch vẫn có thể có sai sót. Rất hoan nghênh sự góp ý của các bạn qua mục comment cuối bài.
Answer with explanation, highlighted vocabularies of Cambridge 9, Test 3, Reading Passage 1 – Attitudes to language
Cambridge IELTS 9: Test 3 – Reading Passage 2 – Answer explanation with keyword tables & Translation
Cambridge IELTS 9: Test 2 – Reading Passage 3 – Answer explanation with keyword tables & Translation
P/s: Ngoài những bài giảng online cho những người tự học tiếng Anh, Ielts, nếu muốn học kỹ và chất lượng hơn với các lớp học ít người, học phí thấp các bạn có thể tham gia các lớp luyện thi Ielts offline trên đường Nguyễn Trãi – Thanh Xuân – Hà Nội do chính Ms. Ngân Hoa giảng dạy nhé.
Nếu có thắc mắc hoặc đóng góp thêm cho bài dịch và giải thích, bạn hãy comment bên dưới hoặc đặt câu hỏi trên Group FB dưới đây mà Ms. Ngân Hoa thường viết bài nhé.
CÁC KHÓA HỌC OFFLINE CỦA Ms. NGÂN HOA
Hướng dẫn các kỹ năng Ielts: