Cam 8, Test 4, Reading Pas 1 – Dịch tiếng Việt – Land of the rising sum



Cambridge Ielts 8 – Test 4 – Passage 1


Land of the rising sum



———————————-

DỊCH TIẾNG VIỆT



Do chưa có thời gian làm nên bài dịch tạm được lấy nguồn từ trang  http://www.tonyenglish.vn/ để phục vụ người tự học.
Ielts Ngân Hoa đang tiến hành hoàn thiện các bài dịch bao gồm bảng từ vựng và giải thích đáp án dần. Các bạn xem các bài làm đầy đủ do Ielts-Ngân Hoa làm Tại Đây.


Dù có cố gắng đến đâu, bài dịch vẫn có thể có sai sót. Rất hoan nghênh sự góp ý của các bạn qua mục comment cuối bài.



Land of the rising sum

Vùng đất của tổng số đang tăng trưởng

 

A Japan has a significantly better record in terms of average mathematical attainment than England and Wales. Large sample international comparisons of pupils’ attainments since the 1960s have established that not only did Japanese pupils at age 13 have better scores of average attainment, but there was also a larger proportion of ‘low’ attainers in England, where, incidentally, the variation in attainment scores was much greater. The percentage of Gross National Product spent on education is reasonably similar in the two countries, so how is this higher and more consistent attainment in maths achieved? Nhật Bản có một thành tích đáng nể về thành tựu toán học so với Anh và xứ Wales. So sánh ở cấp độ lớn hơn trên trường quốc tế về thành tựu các học sinh từ những năm 1960 thì không chỉ học sinh Nhật Bản ở độ tuổi 13 có điểm số trung bình tốt hơn, mà tỷ lệ học sinh có thành tích thấp ở Anh cũng cao vì tình cờ nơi đây có sự biến động về điểm số rất lớn. Tỷ lệ phần trăm của tổng sản phẩm quốc gia chi cho giáo dục ở hai quốc gia trên tương đối giống nhau, do đó làm thế nào để đạt được thành tích cao hơn và nhất quán hơn trong môn toán?.
   
B Lower secondary schools in Japan cover three school years, from the seventh grade (age 13) to the ninth grade (age 15). Virtually all pupils at this stage attend state schools: only 3 per cent are in the private sector. Schools are usually modern in design, set well back from the road and spacious inside. Classrooms are large and pupils sit at single desks in rows. Lessons last for a standardised 50 minutes and are always followed by a 10-minute break, which gives the pupils a chance to let off steam. Teachers begin with a formal address and mutual bowing, and then concentrate on whole-class teaching.
Classes are large — usually, about 40 — and are unstreamed. Pupils stay in the same class for all lessons throughout the school and develop considerable class identity and loyalty. Pupils attend the school in their own neighbourhood, which in theory removes ranking by school. In practice in Tokyo, because of the relative concentration of schools, there is some competition to get into the ‘better’ school in a particular area.
Trường trung học cơ sở ở Nhật Bản bao gồm ba năm học, từ lớp bảy (13 tuổi) đến lớp chín (15 tuổi). Hầu như tất cả các học sinh ở giai đoạn này đều học tại các trường nhà nước: chỉ có 3 phần trăm là học ở khu vực tư nhân. Trường học thường có thiết kế rất hiện đại, được sắp xếp rất tốt ngay từ đường đi vào và cả bên trong rộng rãi. Phòng học lớn và mỗi em học sinh được ngồi một bàn theo hàng dọc. Những bài học kéo dài theo tiêu chuẩn 50 phút và luôn luôn có 10 phút giải lao, cho các em học sinh cơ hội để xả hơi. Giáo viên bắt đầu với một nghi thức trang trọng là cúi chào lẫn nhau, và sau đó cả lớp tập trung vào bài giảng.
Các lớp học rất rộng – thường khoảng 40 em và không phân luồng. Các học sinh ngồi cùng một lớp học cho tất cả các môn trong suốt quá trình đi học để phát triển khả năng đồng nhất và lòng trung thành rất đáng nể. Học sinh học tại trường ở gần nhà mà trên lý thuyết là không phân biệt xếp hạng giữa các trường. Trong thực tế ở Tokyo, do việc tập trung tương đối lớn các trường học ở đây nên có một sự cạnh tranh nào đó để được vào trường ‘tốt hơn’ trong một khu vực cụ thể.
   
C Traditional ways of teaching form the basis of the lesson and the remarkably quiet classes take their owe notes of the points made and the examples demonstrated. Everyone has their own copy of the textbook supplied by the central education authority, Monbusho, as part of the concept of free compulsory education up to the age of 15. These textbooks are, on the whole, small, presumably inexpensive to produce, but well set out and logically developed. (One teacher was particularly keen to introduce colour and pictures into maths textbooks: he felt this would make them more accessible to pupils brought up in a cartoon culture.) Besides approving textbooks, Monbusho also decides the highly centralised national curriculum and how it is to be delivered. Các cách dạy học truyền thống hình thành nên nền tảng của bài học và các lớp học cực kỳ yên tĩnh là minh chứng cho các luận điểm về dạy học ở trên. Mỗi em học sinh đều có bản sao những cuốn sách giáo khoa được cung cấp bởi các cơ quan giáo dục trung ương, gọi là Monbusho, như là một phần của khái niệm giáo dục bắt buộc miễn phí cho đến tuổi 15. Về tổng thể thì các sách giáo khoa thường nhỏ và có lẽ khá rẻ để sản xuất nhưng cũng được sắp xếp và phát triển rất hợp lý. Một giáo viên được đặc biệt chỉ định để vẽ các màu sắc và hình ảnh minh hoạ cho sách giáo khoa môn toán: giáo viên cảm thấy điều này sẽ giúp các em học sinh lớn lên trên nền văn hoá phim hoạt hình dễ tiếp cận bài học hơn. Bên cạnh việc phê duyệt sách giáo khoa, Monbusho cũng quyết định các chương trình học tập trung cho cả nước và cách thức triển khai chương trình này.
   
D Lessons all follow the same pattern. At the beginning, the pupils put solutions to the homework on the board, then the teachers comment, correct or elaborate as necessary. Pupils mark their own homework: this is an important principle in Japanese schooling as it enables pupils to see where and why they made a mistake, so that these can be avoided in future. No one minds mistakes or ignorance as long as you are prepared to learn from them.
After the homework has been discussed, the teacher explains the topic of the lesson, slowly and with a lot of repetition and elaboration. Examples are demonstrated on the board; questions from the textbook are worked through first with the lass, and then the dass is set questions from the textbook to do individually. Only rarely are supplementary worksheets distributed in a maths dass. The impression is that the logical nature of the textbooks and their comprehensive coverage of different types of examples, combined with the relative homogeneity of the dass, renders work sheets unnecessary. At this point, the teacher would circulate and make sure that all the pupils were coping well.
Các bài học đều tuân theo cùng một khuôn mẫu. Lúc đầu, các em học sinh giải các bài tập trên bảng, sau đó giáo viên sẽ nhận xét, chỉnh sửa hoặc xây dựng nếu cần thiết. Học sinh sẽ tự chấm điểm bài tập về nhà của mình: đây là một nguyên tắc quan trọng trong việc học ở Nhật vì nó cho phép học sinh biết được chúng đã làm sai ở đâu và vì sao sai, do đó chúng có thể được tránh sai lầm này trong tương lai. Sẽ không để ý những sai lầm này nếu bạn đang học hỏi từ chúng.
Sau khi các bài tập đã được thảo luận, giáo viên sẽ giải thích các chủ điểm của bài học rất chậm với nhiều sự lặp lại và chỉnh sửa. Các ví dụ được minh hoạ trên bảng; các câu hỏi từ sách giáo khoa được thảo luận trước trên lớp sau đó mỗi em trong lớp sẽ phải trả lời các câu hỏi từ sách giáo khoa này. Các bảng tính phụ trợ hiếm khi được sử dụng trong lớp học toán. Ấn tượng là bản chất logic của sách giáo khoa và việc bao phủ toàn diện của sách về các thể loại khác nhau của ví dụ, kết hợp với sự đồng nhất tương đối của lớp học, làm cho các bản tính trở nên không cần thiết. Đến lúc này, giáo viên sẽ cho lưu hành sách và đảm bảo rằng tất cả các em học sinh đều được theo kịp.
   
E It is remarkable that large, mixed-ability classes could be kept together for maths throughout all their compulsory schooling from 6 to 15. Teachers say that they give individual help at the end of a lesson or after school, setting extra work if necessary. In observed lessons, any strugglers would be assisted by the teacher or quietly seek help from their neighbour. Carefully fostered lass identity makes pupils keen to help each other — anyway, it is in their interests since the class progresses together.
This scarcely seems adequate help to enable slow learners to keep up. However, the Japanese attitude towards education runs along the lines of ‘if you work hard enough, you can do almost anything’. Parents are kept closely informed of their children’s progress and will play a part in helping their children to keep up with dass, sending them to ‘Juku’ (private evening tuition) if extra help is needed and encouraging them to work harder. It seems to work, at least for 95 per cent of the school population.
Đáng chú ý là các lớp học này là hỗn hợp các em có khả năng khác nhau và học môn toán bắt buột chung suốt từ 6 đến 15 tuổi. Các giáo viên nói rằng họ luôn giúp đỡ mỗi em học sinh vào cuối mỗi một bài học hoặc sau giờ học hay trợ giảng thêm nếu cần thiết. Trong các bài học mà chúng tôi quan sát, bất kỳ em nào gặp khó khăn sẽ được sự hỗ trợ bởi các giáo viên hoặc sự giúp đỡ lặng lẽ từ bạn bè bên cạnh. Bản sắc giúp đỡ được nuôi dưỡng cẩn thận này làm cho học sinh quan tâm giúp nhau nhau và dù sao, đó là vì lợi ích của các em vì cả lớp sẽ cùng phát triển chung với nhau.
Do đó hiếm có trường hợp giúp các em học chậm để theo kịp. Tuy nhiên, thái độ của Nhật Bản đối với giáo dục là theo chủ nghĩa đổi mới tức “nếu bạn làm việc đủ chăm chỉ thì bạn có thể làm hầu hết mọi thứ”. Phụ huynh được nắm bắt thông tin chặt chẽ về sự tiến bộ của con mình và sẽ đóng vai trò trong việc giúp con cái của họ để theo kịp với lớp như gửi chúng đến lớp ‘Juku “(lớp bổ trợ buổi tối) để học thêm và được khuyến khích học tập chăm chỉ hơn. Việc này có hiệu quả ít nhất là 95 phần trăm của số học sinh.
   
F So what are the major contributing factors in the success of maths teaching? Clearly, attitudes are important. Education is valued greatly in Japanese culture; maths is recognised as an important compulsory subject throughout schooling; and the emphasis is on hard work coupled with a focus on accuracy.
Other relevant points relate to the supportive attitude of a class towards slower pupils, the lack of competition within a class, and the positive emphasis on learning for oneself and improving one’s own standard. And the view of repetitively boring lessons and learning the facts by heart, which is sometimes quoted in relation to Japanese lasses, may be unfair and unjustified. No poor maths lessons were observed. They were mainly good and one or two were inspirational.
Vậy các yếu tố góp phần quan trọng trong sự thành công của việc giảng dạy toán học là gì? Rõ ràng là thái độ rất quan trọng. Giáo dục được đánh giá rất cao trong văn hóa Nhật Bản; toán được công nhận là một môn học bắt buộc quan trọng trong suốt học kỳ; và trọng tâm là học tập chăm chỉ kết hợp với sự tập trung vào tính chính xác.
Các quan điểm khác liên quan đến thái độ hổ trợ của lớp đối với các học sinh chậm, thiếu khả năng cạnh tranh trong lớp, và về điểm mạnh tích cực của việc tự học và nâng cao tiêu chuẩn của chính mình. Và quan điểm về các bài học nhàm chán lặp đi lặp lại và việc học vẹt mà đôi khi được trích dẫn liên quan đến các lớp học ở Nhật, có thể được xem là bất công và phi lý. Không có bài toán nào được xem là dỡ cả. Mà chủ yếu là các bài này hay và được truyền cảm hứng đến học sinh như thế nào. 

 



Trên đây là bài dịch tiếng Việt của Cambridge 8, Test 4, Reading Passage 1 – Land of the rising sum được lấy nguồn từ trang  http://www.tonyenglish.vn/ để phục vụ người tự học.
Ielts Ngân Hoa đang tiến hành hoàn thiện các bài dịch bao gồm bảng từ vựng và giải thích đáp án dần. Các bạn xem các bài làm đầy đủ do Ielts-Ngân Hoa làm Tại Đây.


Dù có cố gắng đến đâu, bài dịch vẫn có thể có sai sót. Rất hoan nghênh sự góp ý của các bạn qua mục comment cuối bài.


Answer with explanation, highlighted vocabularies of Cambridge 8, Test 4, Reading Passage 1 – Land of the rising sum

 

Cambridge IELTS 8: Test 4 – Reading Passage 2 – Answer explanation with keyword tables & Translation


Cambridge IELTS 8: Test 3 – Reading Passage 3 – Answer explanation with keyword tables & Translation

 


P/s: Ngoài những bài giảng online cho những người tự học tiếng Anh, Ielts, nếu muốn học kỹ và chất lượng hơn với các lớp học ít người, học phí thấp các bạn có thể tham gia các lớp luyện thi Ielts offline trên đường Nguyễn Trãi – Thanh Xuân – Hà Nội do chính Ms. Ngân Hoa giảng dạy nhé.



Nếu có thắc mắc hoặc đóng góp thêm cho bài dịch và giải thích, bạn hãy comment bên dưới hoặc đặt câu hỏi trên Group FB dưới đây mà Ms. Ngân Hoa thường viết bài nhé.

This image has an empty alt attribute; its file name is image.png


CÁC KHÓA HỌC OFFLINE CỦA Ms. NGÂN HOA


Hướng dẫn các kỹ năng Ielts:

Ielts Writing

Ielts Speaking

Ielts Reading

Ielts Listening

Hướng dẫn chung về Ielts

Academic vocabularies


Ngữ pháp

Luyện thi tốt nghiệp THPT & ĐH



Leave a Reply

KHAI GIẢNG CÁC LỚP THÁNG 9

Ielts – Ngân Hoa Facebook

Chat trực tiếp Ms.Ngân Hoa qua Fb (click ảnh)

Categories

KHAI GIẢNG LỚP IELTS

HỌC ONLINE VỚI Ms. NGÂN HOA

error: Content is protected !!